Cỏ Roi Ngựa (Mã Tiền Thảo) Điều Trị Bệnh Cổ Trướng
ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT VÀ SINH THÁI
"Cỏ roi ngựa" là loài cây mọc hoang rải rác khắp ở các nơi, từ các tỉnh đồng bằng, trung du, đến các vùng núi thấp. Cỏ roi ngựa là vị thuốc dễ kiếm, dễ tìm và có nhiều tác dụng kỳ diệu.
Trong các sách thuốc Đông y, cây cỏ roi ngựa thường gọi là "mã tiên thảo" ("mã" = ngựa, "tiên" = roi, "thảo" = cỏ); do loại cỏ này có thân dài, thẳng, có đốt, nhìn giống như là cái như roi ngựa.
"Cỏ roi ngựa" còn có rất nhiều tên khác như "cây chỉ thiên", "phượng cảnh thảo", "thiết mã tiên", "hạc tất phong", "thoái huyết thảo", "cỏ vọt ngựa" (sách "Nam dược Thần hiệu" của Tuệ Tĩnh), "nhả tháng én" (dân tộc Tày), "co pin mạ" (Thái), ...; tên khoa học là Verbena officinalis L., thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Đặc điểm thực vật: Cỏ roi ngựa là loại cây thảo nhỏ, sống dai, mọc thành bụi, cao từ 0,1-1m. Thân có 4 cạnh, mọc đứng, có lông. Lá mọc đối, xẻ thành những thùy hình lông chim không đều. Mép lá có răng cưa; phiến lá men theo cuống đến tận gốc. Hoa mọc ở ngọn, thành bông hoặc chùy, dài khoảng 20cm, phân nhánh nhiều; lá bắc có mũi nhọn; hoa nhỏ màu xanh lam tím nhạt, lưỡng tính, mọc sít nhau, không đều. Quả nang, có 4 nhân, hạt nhỏ. Sinh thái: Cỏ roi ngựa hay gặp ở những chỗ đất ẩm ven bờ rào, bờ ruộng, trên các bãi hoang quanh làng bản, ven đường đi, chân đê và nương rẫy. Cây ưa ánh sáng, sinh trưởng nhanh, có vòng đời (tính từ khi hạt nảy mầm cho đến khi tàn lụi) kéo dài khoảng 4- 5 tháng. Mùa hoa và quả từ khoảng tháng 3 đến tháng 9. Để dùng làm thuốc, người ta chặt toàn cây, hoặc nhổ cả cây kèm theo rễ. Có thể dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô; dùng tươi có tác dụng tốt hơn.
NHỮNG TÁC DỤNG CHỮA BỆNH ĐẶC HIỆU
Trong các sách về Đông dược dùng trên lâm sàng, cỏ roi ngựa thường được xếp vào nhóm các loại thuốc "giải biểu" (giải trừ tác nhân gây bệnh (giải) ở các bộ phận thuộc phần bao bọc bên ngoài của cơ thể (biểu)). Nhưng do cỏ roi ngựa còn có tác dụng giải độc, nên một số sách thuốc lại xếp nó vào loại thuốc "giải độc". Theo Đông y: Cỏ roi ngựa có vị đắng, tính mát; đi vào các kinh Can và Tỳ. Có tác dụng giải biểu, hoạt huyết, tán ứ, thanh nhiệt, giải độc, thông kinh, lợi tiểu, tiêu thũng. Thường dùng chữa cảm mạo phát sốt, sốt rét, cổ trướng, hầu họng sưng đau, hoàng đản (vàng da), bạch hầu, đòn ngã tổn thương, ... Liều dùng: Sắc uống dùng 15-30g khô hoặc 30-60g tươi; dùng ngoài giã đắp ngoài hoặc nấu nước tắm, rửa. Kiêng kỵ: Phụ nữ mang thai phải thận trọng khi sử dụng. Các kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy: Cỏ roi ngựa có tác dụng tiêu viêm, giảm đau, sát khuẩn (nước sắc có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lỵ), cầm máu, chất verbenalin trong cỏ roi ngựa có tác dụng lợi sữa (tăng tiết sữa) ở động vật đang cho con bú. Những năm gần đây các nhà khoa học còn phát hiện thêm tác dụng ức chế đối với vi trùng gây sốt rét.
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CỤ THỂ
Tại phương Đông, tác dụng chữa bệnh của cỏ roi ngựa (mã tiên thảo) đã được ghi chép đầu tiên trong sách "Danh y biệt lục" của Đào Hoằng Cảnh (456-536). Thời xưa, dân châu Âu cũng rất hay dùng đến vị thuốc này, coi như có khả năng chữa được bách bệnh. Tuy nhiên hiện nay, tại ở các nước châu Âu, người ta chỉ còn dùng nó làm thuốc xoa bóp.
Một số cách sử dụng cụ thể:
(1) Ăn phải cá độc sinh cổ trướng: Dùng cỏ roi ngựa một nắm to, sắc nước uống nhiều lần trong ngày (Tuệ Tĩnh - "Nam dược thần hiệu").
(2) Cổ trướng - bụng trướng to, da đen xạm, phiền khát: Dùng cỏ roi ngựa, giã nát, sắc với nước hoặc rượu, uống khi còn nóng ("Theo Vệ sinh Giản dịch phương").
(3) Họng sưng đau: Dùng cành và lá cỏ roi ngựa tươi một nắm to, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa thêm một lượng sữa người vào, ngậm và nuốt dần từng ít một ("Giang Tây Trung thảo dược học").
(4) Sốt rét: Dùng cỏ roi ngựa khô 30-60g, sắc nước uống. Trước và sau lúc lên cơn sốt 1-2 giờ uống 1 lần. Đã tiến hành điều trị cho 236 ca, 216 ca có kết quả tốt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng ức chế đối với vi trùng sốt rét (malarial parasite), khiến trùng bị biến dạng và chết ("Theo Thảo mộc liệu pháp").
(5) Phòng viêm gan truyền nhiễm: Dùng cỏ roi ngựa 25g, cam thảo 5g, sắc với 150 ml nước, đun nhỏ lửa đến khi cạn còn 40ml - đó là liều lượng 1 lần uống đối với người lớn; mỗi ngày uống 3 lần vào trước bữa cơm, liên tục trong 4 ngày. Theo Trung y tạp chí 4/1960: Trong thời kỳ có dịch viêm gan truyền nhiễm, 74 người trong diện có nguy cơ bị nhiễm bệnh đã được sử dụng phương thuốc trên, theo dõi trong 4 tháng không thấy bị nhiễm bệnh. Trong khi đó, nhóm đối chứng 35 người, có 3 người bị bệnh, như vậy sơ bộ có thể thấy mã tiên thảo có tác dụng dự phòng nhất định đối với bệnh viêm gan nhiễm trùng.
(6) Hoàng đản (vàng da): Dùng rễ cỏ roi ngựa tươi hoặc toàn cây tươi 50g, sắc lấy nước, bỏ bã, pha thêm đường; chia thành 3 phần uống trong ngày; nếu vùng gan trướng đau thêm sơn tra 15g vào cùng sắc uống ("Giang Tây Thảo dược thủ sách").
(7) Trĩ nội: Dùng cỏ roi ngựa, rau dền gai - mỗi thứ 20g; sắc nước uống thay trà trong ngày, liên tục trong nhiều ngày. Tạp chí Quảng Tây trung dược học số 2/1977 thông báo: 1 nữ bệnh nhân 26 tuổi, bị trĩ nội xuất huyết đã 11 năm, sử dụng phương thuốc này trong nửa tháng đã khỏi bệnh, 2 năm sau không thấy tái phát.
(8) Da lở ngứa: Khi da bị lở ngứa, có thể lấy 50-100g cỏ roi ngựa tươi, nấu nước để tắm rửa hàng ngày và xoa xát lên chỗ da có bệnh; tác dụng chống viêm và chống ngứa rất tốt. Cây không độc, không gây dị ứng, mẩn ngứa như lá han hay một số loại lá độc khác.
Tham khảo thêm một số bài thuốc nam có dùng Cỏ Roi Ngựa:
"Cỏ roi ngựa" là loài cây mọc hoang rải rác khắp ở các nơi, từ các tỉnh đồng bằng, trung du, đến các vùng núi thấp. Cỏ roi ngựa là vị thuốc dễ kiếm, dễ tìm và có nhiều tác dụng kỳ diệu.
Trong các sách thuốc Đông y, cây cỏ roi ngựa thường gọi là "mã tiên thảo" ("mã" = ngựa, "tiên" = roi, "thảo" = cỏ); do loại cỏ này có thân dài, thẳng, có đốt, nhìn giống như là cái như roi ngựa.
"Cỏ roi ngựa" còn có rất nhiều tên khác như "cây chỉ thiên", "phượng cảnh thảo", "thiết mã tiên", "hạc tất phong", "thoái huyết thảo", "cỏ vọt ngựa" (sách "Nam dược Thần hiệu" của Tuệ Tĩnh), "nhả tháng én" (dân tộc Tày), "co pin mạ" (Thái), ...; tên khoa học là Verbena officinalis L., thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Đặc điểm thực vật: Cỏ roi ngựa là loại cây thảo nhỏ, sống dai, mọc thành bụi, cao từ 0,1-1m. Thân có 4 cạnh, mọc đứng, có lông. Lá mọc đối, xẻ thành những thùy hình lông chim không đều. Mép lá có răng cưa; phiến lá men theo cuống đến tận gốc. Hoa mọc ở ngọn, thành bông hoặc chùy, dài khoảng 20cm, phân nhánh nhiều; lá bắc có mũi nhọn; hoa nhỏ màu xanh lam tím nhạt, lưỡng tính, mọc sít nhau, không đều. Quả nang, có 4 nhân, hạt nhỏ. Sinh thái: Cỏ roi ngựa hay gặp ở những chỗ đất ẩm ven bờ rào, bờ ruộng, trên các bãi hoang quanh làng bản, ven đường đi, chân đê và nương rẫy. Cây ưa ánh sáng, sinh trưởng nhanh, có vòng đời (tính từ khi hạt nảy mầm cho đến khi tàn lụi) kéo dài khoảng 4- 5 tháng. Mùa hoa và quả từ khoảng tháng 3 đến tháng 9. Để dùng làm thuốc, người ta chặt toàn cây, hoặc nhổ cả cây kèm theo rễ. Có thể dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô; dùng tươi có tác dụng tốt hơn.
NHỮNG TÁC DỤNG CHỮA BỆNH ĐẶC HIỆU
Trong các sách về Đông dược dùng trên lâm sàng, cỏ roi ngựa thường được xếp vào nhóm các loại thuốc "giải biểu" (giải trừ tác nhân gây bệnh (giải) ở các bộ phận thuộc phần bao bọc bên ngoài của cơ thể (biểu)). Nhưng do cỏ roi ngựa còn có tác dụng giải độc, nên một số sách thuốc lại xếp nó vào loại thuốc "giải độc". Theo Đông y: Cỏ roi ngựa có vị đắng, tính mát; đi vào các kinh Can và Tỳ. Có tác dụng giải biểu, hoạt huyết, tán ứ, thanh nhiệt, giải độc, thông kinh, lợi tiểu, tiêu thũng. Thường dùng chữa cảm mạo phát sốt, sốt rét, cổ trướng, hầu họng sưng đau, hoàng đản (vàng da), bạch hầu, đòn ngã tổn thương, ... Liều dùng: Sắc uống dùng 15-30g khô hoặc 30-60g tươi; dùng ngoài giã đắp ngoài hoặc nấu nước tắm, rửa. Kiêng kỵ: Phụ nữ mang thai phải thận trọng khi sử dụng. Các kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy: Cỏ roi ngựa có tác dụng tiêu viêm, giảm đau, sát khuẩn (nước sắc có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lỵ), cầm máu, chất verbenalin trong cỏ roi ngựa có tác dụng lợi sữa (tăng tiết sữa) ở động vật đang cho con bú. Những năm gần đây các nhà khoa học còn phát hiện thêm tác dụng ức chế đối với vi trùng gây sốt rét.
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CỤ THỂ
Tại phương Đông, tác dụng chữa bệnh của cỏ roi ngựa (mã tiên thảo) đã được ghi chép đầu tiên trong sách "Danh y biệt lục" của Đào Hoằng Cảnh (456-536). Thời xưa, dân châu Âu cũng rất hay dùng đến vị thuốc này, coi như có khả năng chữa được bách bệnh. Tuy nhiên hiện nay, tại ở các nước châu Âu, người ta chỉ còn dùng nó làm thuốc xoa bóp.
Một số cách sử dụng cụ thể:
(1) Ăn phải cá độc sinh cổ trướng: Dùng cỏ roi ngựa một nắm to, sắc nước uống nhiều lần trong ngày (Tuệ Tĩnh - "Nam dược thần hiệu").
(2) Cổ trướng - bụng trướng to, da đen xạm, phiền khát: Dùng cỏ roi ngựa, giã nát, sắc với nước hoặc rượu, uống khi còn nóng ("Theo Vệ sinh Giản dịch phương").
(3) Họng sưng đau: Dùng cành và lá cỏ roi ngựa tươi một nắm to, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa thêm một lượng sữa người vào, ngậm và nuốt dần từng ít một ("Giang Tây Trung thảo dược học").
(4) Sốt rét: Dùng cỏ roi ngựa khô 30-60g, sắc nước uống. Trước và sau lúc lên cơn sốt 1-2 giờ uống 1 lần. Đã tiến hành điều trị cho 236 ca, 216 ca có kết quả tốt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng ức chế đối với vi trùng sốt rét (malarial parasite), khiến trùng bị biến dạng và chết ("Theo Thảo mộc liệu pháp").
(5) Phòng viêm gan truyền nhiễm: Dùng cỏ roi ngựa 25g, cam thảo 5g, sắc với 150 ml nước, đun nhỏ lửa đến khi cạn còn 40ml - đó là liều lượng 1 lần uống đối với người lớn; mỗi ngày uống 3 lần vào trước bữa cơm, liên tục trong 4 ngày. Theo Trung y tạp chí 4/1960: Trong thời kỳ có dịch viêm gan truyền nhiễm, 74 người trong diện có nguy cơ bị nhiễm bệnh đã được sử dụng phương thuốc trên, theo dõi trong 4 tháng không thấy bị nhiễm bệnh. Trong khi đó, nhóm đối chứng 35 người, có 3 người bị bệnh, như vậy sơ bộ có thể thấy mã tiên thảo có tác dụng dự phòng nhất định đối với bệnh viêm gan nhiễm trùng.
(6) Hoàng đản (vàng da): Dùng rễ cỏ roi ngựa tươi hoặc toàn cây tươi 50g, sắc lấy nước, bỏ bã, pha thêm đường; chia thành 3 phần uống trong ngày; nếu vùng gan trướng đau thêm sơn tra 15g vào cùng sắc uống ("Giang Tây Thảo dược thủ sách").
(7) Trĩ nội: Dùng cỏ roi ngựa, rau dền gai - mỗi thứ 20g; sắc nước uống thay trà trong ngày, liên tục trong nhiều ngày. Tạp chí Quảng Tây trung dược học số 2/1977 thông báo: 1 nữ bệnh nhân 26 tuổi, bị trĩ nội xuất huyết đã 11 năm, sử dụng phương thuốc này trong nửa tháng đã khỏi bệnh, 2 năm sau không thấy tái phát.
(8) Da lở ngứa: Khi da bị lở ngứa, có thể lấy 50-100g cỏ roi ngựa tươi, nấu nước để tắm rửa hàng ngày và xoa xát lên chỗ da có bệnh; tác dụng chống viêm và chống ngứa rất tốt. Cây không độc, không gây dị ứng, mẩn ngứa như lá han hay một số loại lá độc khác.
Tham khảo thêm một số bài thuốc nam có dùng Cỏ Roi Ngựa:
1) Chữa viêm cầu thận mãn tính, phù ít kéo dài (nhất là ở 2 mắt cá chân), bụng chướng, nước tiểu ít,
sắc mặt trắng xanh:
- Cỏ roi ngựa (mã tiên thảo) 250g, bồ hóng bếp 2000g, vỏ bưởi 300g, ích mẫu 150g; quế thanh, phèn phi,
đại hồi, thảo quả, mỗi vị 100g. Ích mẫu và cỏ roi ngựa nấu cao, các vị khác tán bột; tất cả trộn đều làm
thành viên hoàn. Uống ngày 40g.
- Cỏ roi ngựa 12g; đậu đỏ, cỏ xước, đậu đen, mỗi vị 20g; thổ phục linh, tỳ giải, củ mài, mỗi vị 16g; tiểu hồi,
mã đề mỗi vị 12g, đại hồi 10g, nhục quế 8g, gừng khô 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
2) Chữa đái dắt buốt: Cỏ roi ngựa 12g, mã đề 20g. Sắc uống ngày 1 thang.
3) Chữa viêm gan virut thể vàng da, đau hạ sườn phải, buồn nôn, ăn kém, nước tiểu vàng sẫm, tiểu
tiện ít: Cỏ roi ngựa 12g, nhân trần 20g; chi tử, lá mua, vỏ núc nác, rau má, chè vằng, lá bồ cu vẽ, vỏ đại,
mỗi vị 12g, thanh bì (vỏ quýt xanh) 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
4) Chữa viêm gan, gan cứng, bụng chướng hoặc viêm thận thủy thũng: Cỏ roi ngựa, ích mẫu, mộc
thông, cỏ xước, rễ cỏ tranh, mỗi vị 20g. Sắc uống ngày 1 thang.
5) Chữa kinh nguyệt không thông, tích huyết tử cung, đau bụng dưới:
- Cỏ roi ngựa giã nhỏ, chế thành cao lỏng 1:1 với cồn 300
. Mỗi lần uống 5ml vào lúc đói, ngày uống 3 lần.
- Cỏ roi ngựa 12g, hương phụ chế 16g, quy vĩ (rễ phụ hay rễ nhánh đương quy) 12g, tô mộc 10g; tam lăng,
huyền hồ, hồng hoa, mỗi vị 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.
6) Chữa kinh nguyệt ra sau kỳ do huyết ứ, lượng ít, màu tím đen, đóng cục, ngực bụng đầy chướng:
Cỏ roi ngựa 12g; kê huyết đằng, ích mẫu, mỗi vị 16g, sinh địa 12g; uất kim, đào nhân, xuyên khung, mỗi
vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
7) Chữa nhọt vú, tắc tia sữa, sung đau: Cỏ roi ngựa tươi 50g, gừng sống 1 củ giã nhỏ, chế vào 30ml rượu,
vắt lấy nước cốt uống, bã đắp vào chỗ đau.
8) Chữa hạ bộ lở ngứa: Cỏ roi ngựa 80g, hạt xà xàng 40g, đun sôi với nước, rồi xông vào chỗ ngứa, sau lấy
nước đó rửa, ngày một lần.
9) Chữa thấp khớp: Cỏ roi ngựa 12g; thổ phục linh, hy thiêm, mỗi vị 16g; ngưu tất, kê huyết đằng, sinh địa,
thiên niên kiện, mỗi vị 12g; rễ gai tầm xoọng, rễ cà gai leo, rẽ cây cúc áo, mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1
thang.
Ngoài ra Loại cỏ này có tác dụng thanh nhiệt, giải độc cũng như thông kinh và lợi tiểu do đó sử dụng cỏ roi ngựa giúp đào thải độc tố hiệu quả. Nhờ đó, bệnh tật được ngăn chặn, điển hình là bệnh rụng tóc.
Cách làm như sau: Rửa sạch cỏ roi ngựa và gội đầu sạch sẽ bằng nước lạnh. Tiếp đến, đun một nồi nước sôi rồi thả cỏ roi ngựa vào đun trong khoảng 20 phút thì tắt bếp và để nguội bớt. Đến khi nước chuyển sang ấm là dùng được.
-Cách dùng: Sử dụng nước để gội đầu, kết hợp với matxa nhẹ nhàng. Sau cùng xả lại tóc một lần nữa và lau khô. Áp dụng công thức này đều đặn 2-3 lần/tuần giúp ngăn rụng tóc hiệu quả.
Cỏ Roi Ngựa (Mã Tiền Thảo) Điều Trị Bệnh Cổ Trướng
Reviewed by Huỳnh Ngọc Tuyên
on
tháng 6 05, 2018
Rating:
Không có nhận xét nào